Dịch vụ phi kiểm toán và tính độc lập của kiểm toán viên tại VN

22:43

Chất lượng kiểm toán đòi hỏi phải luôn được chuyên sâu trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Tính độc lập là 1 thành phần thiết yếu của chất lượng kiểm toán, đảm bảo sự khách quan của ý kiến kiểm toán. vì vậy, tính chủ quyền kiểm toán khi được du nhập từ quốc tế vào VN sẽ có những khác biệt. Thông qua các phương pháp nghiên cứu và điều tra, bài viết tìm ra được mô hình dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập của kiểm toán.


Tính độc lập là thành phần cần thiết của chất lượng kiểm toán. bây giờ, trên thế giới có khá nhiều điều tra và nghiên cứu về tính độc lập kiểm toán nói chung và mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính chủ quyền kiểm toán nói riêng theo thời khắc và không gian khác nhau. Đối với nước ta ngành Kiểm toán còn non trẻ và có đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội khác so với các nước trên thế giới. Do đó, mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính chủ quyền kiểm toán tại Việt Nam cũng có những đặc trưng khác với quả đât. nghiên cứu và điều tra vấn đề này, bài viết tìm ra được mô hình dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ hỗ trợ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập kiểm toán.

Xem thêm: Liên hệ ngay với công ty Vinasc nếu quý công ty có nhu cầu về dich vu ke toan nhanh chóng và chuyên nghiệp nhất.

Cách thức điều tra và nghiên cứu

Bài viết sử dụng phương pháp điều tra nghiên cứu tư liệu và cách thức diễn giải để điều tra nghiên cứu để tổng kết các nghiên cứu trước đã công bố trên các tạp chí uy tín; điều tra nghiên cứu các khái niệm, kim chỉ nan có liên quan đến đề tài đang thực hiện. Tiếp theo dùng phương pháp nghiên cứu và điều tra theo bối cảnh để xác minh các loại hình dịch vụ phi kiểm toán có thể tác động đến tính hòa bình kiểm toán phù hợp bối cảnh văn hóa, xã hội VN. Sau đó, sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia cho đến khi đạt điểm bão hòa với bảng câu hỏi mở để xác định lại những từng mô hình dịch vụ phi kiểm toán có tác động đến tính độc lập của kiểm toán viên nước ta hay không.

Dữ liệu nghiên cứu và điều tra

Dữ liệu nghiên cứu và điều tra gồm có: Các bài báo khoa học công bố trên các tạp chí kế toán, kiểm toán hàng đầu; Các quy định pháp luật về đạo đức nghề nghiệp; công dụng chất vấn chuyên gia là giám đốc công ty kiểm toán, kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán, cán bộ tín dụng ngân hàng, giám đốc và kế toán trưởng công ty được kiểm toán, cán bộ hội nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam.

Một số Sự việc lý luận về tính độc lập kiểm toán

Tính độc lập kiểm toán

Tính độc lập thường được mô tả như là nền tảng của kiểm toán và rất cần thiết cho báo cáo tài chính doanh nghiệp (Mautz & Sharaf, 1964; Previts & Merino, 1998). Bởi vì, kiểm toán được yêu cầu cung cấp sự đảo bảo phải chăng và khách quan rằng báo cáo tài chính của một doanh nghiệp phản ảnh trung thực và phù hợp, từ đó nâng cao độ tin cậy cho báo cáo tài chính. Qua đó, các bên liên quan (cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng, nhà quy định luật, chủ nợ, Thị Trường tài chính và công chúng) tin cậy vào sự khách quan và trung thực của những báo cáo rất có khả năng đưa ra đưa ra quyết định phù hợp cho đầu tư.

Liên đoàn Kế toán thế giới phân loại tính chủ quyền thành 2 phần: hòa bình tư tưởng và hòa bình hình thức. Trong khi độc lập tư tưởng là trạng thái suy nghĩ mà cho phép kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với sự khách quan, trung thực và hoài nghi mang tính công việc và nghề nghiệp, độc lập hình thức đòi hỏi tránh những tình huống mà rất có thể làm cho quý khách có kiến thức về tất cả tình huống ngờ vực kiểm toán viên rất có thể đưa ra ý kiến khách quan.

Tuy nhiên, độc lập tư tưởng thì khó để nhận xét, vì vậy nhà làm luật, nhà đầu tư và khách hàng báo cáo tài chính khác thì hầu hết là đánh giá chủ quyền hình thức bằng cách xem xét có hay không những tình huống mà có làm tổn hại đáng kể tính tự do của kiểm toán viên là tồn tại những biện pháp đảm bảo để làm nhẹ bớt những nguy cơ.

Ở VN, tính độc lập được quy định trong Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và công việc kế toán và kiểm toán ban hành theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 8/5/2015 của Bộ Tài chính. Tính tự do là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với đạo đức nghề nghiệp và công việc của kiểm toán viên. Tính hòa bình đòi hỏi kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến phải độc lập về mặt hình thức và độc lập về mặt tư tưởng.

Dịch vụ phi kiểm toán

Dịch vụ phi kiểm toán là những dịch vụ khác với dịch vụ kiểm toán mà công ty kiểm toán độc lập cung cấp cho cùng một khách hàng kiểm toán. Các dịch vụ phi kiểm toán gồm có: Dịch vụ tư vấn quản lý, dịch vụ xây dựng hệ thống, dịch vụ tư vấn thuế… Các dịch vụ phi kiểm toán có khả năng làm giảm tính độc lập kiểm toán viên.

định hướng đại diện

Lý thuyết đại diện xuất hiện trong năm 1970 với nghiên cứu đầu tiên vào những vấn đề thông tin bất cân xứng giữa chủ nhân và người quản lý trong ngành Bảo hiểm (Spence và Zeckhauser, 1971; Ross, 1973) và gấp rút trở thành một Lý thuyết vận dụng vào các lĩnh vực khác về những vấn đề liên quan đến hợp đồng đại diện giữa người sở hữu và người đại diện người chủ sở hữu để điều hành buổi giao lưu của đơn vị - gọi là thay mặt (Jensen và Meckling, 1976; Harris và Raviv, 1978).

chủ nhân mong muốn người đại diện hoàn thành mục tiêu của mình đặt ra và người đại diện phải thực hiện công việc một cách hiệu quả và trung thực. Người đại diện có nhiều thẩm quyền trong việc điều hành hoạt động vui chơi của đơn vị, trong khi người chủ sở hữu khó giám sát hoạt động của đơn vị. kim chỉ nan cho rằng, tồn tại năng lực chuyên môn người đại diện không thực hiện hết hoặc không đúng những yêu cầu của người sở hữu vốn đề ra. Do đó xảy ra xung đột lợi ích giữa người sở hữu vốn và người đại diện.

Lý thuyết đại diện cho rằng, kiểm toán viên được chọn trong mối quan hệ lợi ích giữa bên thứ ba và nhà cai quản. Do đó, kiểm toán viên đóng vai trò là chuyên gia có chuyên môn cao và độc lập để xác nhận thông tin thể hiện trên báo cáo của đơn vị được kiểm toán, từ đó giải quyết những xung đột lợi ích giữa chủ nhân, người đại diện và các bên liên quan.

Định hướng tính hợp pháp

định hướng tính hợp pháp dựa trên tiền đề rằng các tổ chức cần phải khẳng định tính hợp pháp của họ trong môi trường bằng cách tuân theo các chuẩn mực và kỳ vọng của xã hội để duy trì liên quan và tiếp tục tồn tại (Suchman, 1995). Khi thái độ và kỳ vọng của xã hội thay đổi, các tổ chức cần phải thích ứng với sự thay đổi các yêu cầu để đảm bảo hoạt động này là hợp pháp và hợp lý và phải chăng (Deegan, 2006). Tính hợp pháp của một đơn vị là 1 trong nguồn lực hoạt động mà được thu được một cách cạnh tranh từ môi trường và sử dụng để đạt được kim chỉ nam đặt ra (Pfeffer & Salancik, 2003; Suchman, 1995).

Đối với những công ty kiểm toán độc lập, mặc dù khung pháp lý cung cấp tính hợp pháp cho các chức năng kiểm toán của chính nó, sự mất lòng tin của công chúng dẫn đến từ những thất bại kiểm toán đòi hỏi sự cần thiết phải thiết lập lại tính hợp pháp của công việc và nghề nghiệp. Môi trường của các kiểm toán viên bao gồm nhiều bên liên quan khác nhau như người sử dụng thông tin, nhà cai trị nhà nước và cơ quan chuyên môn.

phù hợp với các Lý thuyết tính hợp pháp, tất cả các bên liên quan có những kỳ vọng của một báo cáo kiểm toán độc lập về báo cáo tài chính có trung thực và hợp lý để đưa ra quyết định phù hợp. Như hòa bình về mặt hình thức phụ thuộc vào vào cách mà người tiêu dùng thông tin nhận thức mối đe dọa Bây Giờ và biện pháp bảo đảm được áp dụng để giảm thiểu những tai hại đến mức chấp nhận được, các bên liên quan sẽ định kỳ kiểm tra liệu có hay không kiểm toán viên kiểm soát các mối đe dọa đến mức chấp nhận được để xác minh tính hợp pháp của họ.

Lý thuyết tính hợp pháp cung cấp cơ sở cho các bên liên quan để đánh giá sự hình thức của tính tự do bằng cách xem xét liệu có hay không kiểm toán viên tránh được hoặc kiểm soát các mối đe dọa tới mức chấp nhận bằng cách thực hiện các biện pháp đảm bảo.

Tổng quan các điều tra nghiên cứu về dịch vụ phi kiểm toán và tính chủ quyền kiểm toán

Có rất nhiều nghiên cứu liên quan ảnh hưởng tác động của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên tại nhiều Thị phần khác nhau qua các thời kỳ. kết quả của sự tác động là hỗn hợp. Dịch vụ phi kiểm toán có khả năng làm giảm tính hòa bình kiểm toán hoặc không ảnh hưởng đánh kể tới tính độc lập. Một số nghiên cứu còn cho thấy thêm, dịch vụ phi kiểm toán làm tăng chất lượng kiểm toán. có thể kể tới các nghiên cứu tiêu biểu sau:

Dịch vụ phi kiểm toán có thể ảnh hưởng tính tự do kiểm toán. RandolphA. Shockley (1981) điều tra và nghiên cứu thông qua bảng câu hỏi qua mail, công dụng là công ty kiểm toán có cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý thì làm giảm tính hòa bình kiểm toán.

Nicholas Dopuch và Ronald R. King (1991) dùng phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu và tác giả đề nghị rằng, người làm chế độ ngăn cấm dịch vụ phi kiểm toán thì sẽ có sự bất lợi ảnh hưởng tác động tới cấu trúc thị trường của ngành kiểm toán, từ đó rất có khả năng ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán.

Ferdinand A. Gul và cộng sự (2007) chỉ ra mối quan hệ giữa phí phi kiểm toán và tính độc lập kiểm toán thì phụ thuộc vào nhiệm kỳ kiểm toán, và phí phi kiểm toán có tác động âm tới tính độc lập kiểm toán khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và quy mô công ty khách hàng nhỏ. Dahlia Robinson (2008) cho rằng, dịch vụ thuế cung cấp bởi kiểm toán viên thì làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. Allen D. Blay và Marshall A. Geiger (2013) chứng minh được mối quan hệ giữa sự suy giảm tính độc lập và phí dịch vụ phi kiểm toán tại Mỹ.

Kiểm toán viên cung cấp dịch vụ hỗ trợ kiện tụng có nhiều khả năng biện hộ cách nhìn khách hàng của họ, từ đó làm giảm tính hòa bình kiểm toán. Tiêu biểu có các nghiên cứu của: Crain và cộng sự (1994); Trompeter (1994); Ponemon (1995); Brody & Masselli (1996); Haynes và cộng sự (1998); Shaub (2004); Francis (2006); Jenkins & Lowe (2011). Dịch vụ thiết kế hệ thống cũng làm giảm tính độc lập kiểm toán như điều tra và nghiên cứu của Kurt Pany and P. M. J. Reekers (1983).

Tuy nhiên, có nhiều điều tra nghiên cứu cho rằng, dịch vụ phi kiểm toán không làm giảm tính độc hòa bình toán. Mark L . Defond và cộng sự (2002) không tìm thấy sự liên quan đáng kể giữa các phí dịch vụ phi kiểm toán và suy giảm tính tự do kiểm toán viên. A A Ghosh và cộng sự (2009) cho rằng, không có bằng chứng về mối liên quan giữa tính độc lập kiểm toán và Phần Trăm phí phi kiểm toán.

Mohinder Parkash và Rajeev Singhal (2009) cho thấy không có sự tương quan đáng kể giữa ý kiến chấp nhận toàn phần và phí dịch vụ phi kiểm toán. Philip Beaulieu và Alan Reinstein (2010) chỉ ra người hành nghề tại công ty lớn sẽ ít có tác dụng hơn kiểm toán viên ở công ty nhỏ trong sự việc tin rằng dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính độc lập kiểm toán.

Nicole Ratzinger-Sakel (2013) cho rằng, kiểm toán viên nước Đức thì không giảm độc lập hơn khi cung cấp dịch vụ phi kiểm toán. Ananth Seetharaman và cộng sự (2015) không tìm thấy mối quan hệ giữa dịch vụ thuế được cung cấp bởi kiểm toán viên và chất lượng báo cáo tài chính cho công ty đại chúng.

Dịch vụ phi kiểm toán tạo ra sự lan tỏa kiến thức, từ đó mang về nhiều lợi ích. Zoe-Vonna Palmrose (1986) cho rằng khách hàng cảm nhận tốt hơn với việc được công ty kiểm toán cung cấp đồng thời dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Mohinder Parkash và Carol F. Venable (1993) chỉ ra khách hàng có khuynh hướng mua dịch vụ phi kiểm toán vì có sự lan tỏa kiến thức khi có sử dụng đồng thời của dịch vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán xuất phát từ một công ty kiểm toán.

Michael Firth (1997) giải thích công ty có chi phí ủy quyền đại diện cao hơn thì có liên quan đến mua dịch vụ phi kiểm toán nhỏ hơn từ kiểm toán viên của họ. Jennifer R. Joe và Scott D. Vandervelde (2005) chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên có thể có nhiều lợi ích từ việc kiến thức chuyển nhượng bàn giao thêm cho tiếp cận khủng hoảng rủi ro kiểm toán khi cùng một kiểm toán viên thực hiện cả dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. điều tra và nghiên cứu của W. Robert Knechel và Divesh S. Sharma (2012) cho thấy, dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên thì mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng mà không dẫn đến mất sự công dụng kiểm toán.

Ngoài ra, dịch vụ phi kiểm toán cũng có liên quan đến các công ty có hành vi gian lận báo cáo tài chính. Ariel Markelevich và Rebecca L. Rosner (2013) chỉ ra rằng, những công ty gian lận mà bị phạt bởi ủy ban chứng khoán thì chi trả tổng phí, phí kiểm toán, phí phi kiểm toán cao hơn đáng kể so với các công ty bị phạt không phải từ ủy ban chứng khoán.

Các điều tra và nghiên cứu trên cho thấy thêm, Một số nghiên cứu và điều tra chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. một số ít nghiên cứu cho biết thêm dịch vụ phi kiểm toán không tác động đến tính chủ quyền kiểm toán hoặc không đủ bằng chứng cho sự tác động này. Bên cạnh đó, một số ít nghiên cứu khác thì cung cấp bằng chứng rằng dịch vụ phi kiểm toán làm tăng khả năng lan tỏa kiến thức và tăng chất lượng kiểm toán. Như vậy, đối với sự tác động ảnh hưởng của dịch vụ phi kiểm toán đến tính tự do kiểm toán, công dụng các nghiên cứu là hỗn hợp.

Lý giải kết quả hỗn hợp có thể là do các điều tra và nghiên cứu được thực hiện tại các đất nước mà khác nhau về văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Đồng thời, các nghiên cứu trên ít khi dùng phương pháp điều tra và nghiên cứu định tính theo bối cảnh để khám phá tại thị trường đang điều tra và nghiên cứu. cho nên vì thế, nếu điều tra nghiên cứu được thực Lúc Này nước ta – một Thị phần kinh tế mới nổi có nhiều đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa khác biệt với các nước trên thế giới - thì rất cần phải khẳng định từng loại hình dịch vụ phi kiểm toán tác động tính độc lập kiểm toán trong bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam.

Công dụng nghiên cứu và hàm ý

Thông qua kết quả khảo lược và phân tích từ các các điều tra nghiên cứu trước, khẳng định lại tính thích hợp với bối cảnh nước ta từ phỏng vấn chuyên gia, kết quả như sau:

Dịch vụ phi kiểm toán tại Việt Nam đang được các công ty kiểm toán cung cấp gồm có: Dịch vụ ghi sổ kế toán, dịch vụ support thuế, dịch vụ hỗ trợ tư vấn quản lý, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ thiết kế hệ thống thông tin kế toán, dịch vụ thi công kiểm soát nội bộ, dịch vụ đánh giá kiểm soát và điều hành nội bộ, dịch vụ cung cấp phần mềm kế toán và thuế, dịch vụ kế toán quản trị, định giá DN, tư vấn niêm yết/cổ phần hóa DN, dịch vụ đào tạo.

Trong các dịch vụ phi kiểm toán nêu trên, thì dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế nếu cung cấp cùng với dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng thì sẽ làm giảm tính chủ quyền kiểm toán. Đồng thời, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và công việc kiểm toán tại nước ta cũng không cho phép công ty kiểm toán cung cấp đồng thời 2 dịch vụ này cùng lúc cung cấp dịch vụ kiểm toán cho 1 khách hàng.

Người được phỏng vấn cho rằng, các dịch vụ phi kiểm toán còn lại thì không ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán do bộ phận cung cấp dịch vụ phi kiểm toán khì khác với nhóm thực hiện kiểm toán.

Về phía đơn vị được kiểm toán, họ cho rằng tính hòa bình kiểm toán vẫn đảm bảo an toàn nếu dịch vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán được thực hiện bởi những nhóm người khác biệt. Hơn nữa, dịch vụ phi kiểm toán sẽ lan tỏa kiến thức sang dịch vụ kiểm toán, làm tăng công dụng kiểm toán.

Từ kết quả nghiên cứu trên cho biết dịch vụ phi kiểm toán với dịch vụ ghi sổ kế toán và hỗ trợ tư vấn thuế sẽ làm suy giảm đáng kể tính tự do kiểm toán. Những dịch vụ phi kiểm toán khác không những không làm tính tự do kiểm toán mà còn làm tăng kết quả kiểm toán do có được sự lan tỏa kiến thức.

Kết luận

Kiểm toán ra đời từ nhu cầu của xã hội nhằm gia tăng tính tin cậy và minh bạch của thông tin tài chính. Tính hòa bình là một yếu tố luôn được xã hội kỳ vọng ngày càng cao để đảm bảo chất lượng kiểm toán. Tính hòa bình kiểm toán bị tác động bởi nhiều yếu tố, trong các số ấy có yếu tố dịch vụ phi kiểm toán. Đã có rất nhiều nghiên cứu trên nhân loại về mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính tự do kiểm toán. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu và điều tra khác biệt, đôi khi trái ngược nhau.

Dựa vào cách thức nghiên cứu phù hợp, bài viết đã xác định được kiểu dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập kiểm toán. Các dịch vụ phi kiểm toán khác như: Dịch vụ hỗ trợ tư vấn quản lý; dịch vụ tư vấn tài chính; dịch vụ kiến thiết hệ thống thông tin kế toán; dịch vụ thiết kế kiểm soát nội bộ; dịch vụ đánh giá kiểm soát nội bộ; dịch vụ cung cấp phần mềm kế toán và thuế; dịch vụ kế toán quản trị; định giá doanh nghiệp; hỗ trợ tư vấn niêm yết/cổ phần hóa doanh nghiệp, dịch vụ đào tạo thì không làm suy giảm tính hòa bình kiểm toán.

Tài liệu tham khảo:

1. Malcolm Smith, Research method in Accounting, 2003;

2. Eisenhardt, Kathleen M., Agency Theory: An Assessment And Review,The Academy of Management Review;Jan 1989; 14,1;57;

3. Shockley, R. A. (1981). Perceptions of auditors’ independence: An empirical analysis. The Accounting Review, 56, 785-800;

4. Palmrose, Z. (1986). The effect of nonaudit services on the pricing of audit services: Further evidence.Journal of Accounting Research, 24, 405-411.

http://dongphucteen.vn/dich-vu-phi-kiem-toan-va-tinh-rieng-cua-kiem-toan-vien-o-vn-20379.html
 

You Might Also Like

0 nhận xét

Popular Posts

Like us on Facebook

Flickr Images